1, Bối cảnh tình hình và những yêu cầu mới đặt ra đối với nhiệm vụ bảo vệ, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Để thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" nhằm chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù dịch đặt trong tâm là chống phá nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng Cộng sản Việt nam, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng tìm mọi cách để xuyên tạc, hạ thấp và phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống, tinh thần xã hội Việt Nam. Vì vậy, tăng cường bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là nhiệm vụ cấp bách trong công tác tư tưởng, lý luận ở nước ta hiện nay. Dự thảo các văn kiện trình đại hội XIII khẳng định: "Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn"(1)và "Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
Chủ nghĩa Mác-Lênin được hiểu theo nghĩa chung nhất là học thuyết khoa học về quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người; về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động chống lại mọi sự bất công, nô dịch, áp bức; về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác-Lênin là sự thống nhất toàn vẹn hữu cơ của ba bộ phận cấu thành không thể tách rời: triết học Mác-Lênin, kinh tế - chính trị học Mác-Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học. Đảng ta, trong quá trình vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và đã tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta giành được những thắng lợi vĩ đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Chủ nghĩa Mác - Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hôi và chủ nghĩa công sản"(3).
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, là lãnh tụ thiên tài, nhà tư tưởng, văn hóa kiệt xuất của dân tộc Việt Nam, Người đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ đó hình thành nên một hệ thống, quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam và lãnh đạo Đảng ta, dân tộc ta hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giành nhiều thành tựu vĩ đại trong sự nghiệp đổi mới. Từ thành quả và kinh nghiệm trong tổ chức lãnh đạo cách mạng, Dự thảo các văn kiện trình đại hội XIII của Đảng, thống nhất quan điểm: "Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa"(4).
Nhìn lại lịch sử, từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời cho đến nay, luôn phải đương đầu với những cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng giữa các lập trường, tư tưởng đối lập nhau. Đặc biệt, ngay sau khi các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ về mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội; lợi dụng sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản và bọn cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin đã tuyên truyền, xuyên tạc, tấn công quyết liệt, lớn tiếng cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, lạc hậu; rằng chủ nghĩa Mác Lênin chỉ có giá trị ở cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, thế kỷ XXI không còn phù hợp nữa. Đồng thời, các thế lực thù địch cũng ra sức phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng cho rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự sao chép chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, thậm chí đem đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin; cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh theo chủ nghĩa dân tộc...
Hiện nay và những năm sáp tới, lợi dụng những khó khăn, những diễn biến phúc tạp của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, các thế lực thù địch dang và sẽ tiếp tục ra sức chống phá cách mạng Việt Nam, chống phá công cuộc đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Nhân dân ta. Đặt biệt là tiếp tục công kích, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đi tới xóa bỏ nền tảng lý luận của Đảng ra khỏi đời sống tinh thân của xã hội ta. Xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Truyền bá hệ tư tưởng tư sản phản động, xuyên tạc, hạ thấp, phủ nhận để đi tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam, hòng làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Cùng với âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, thì những diễn biến trong đời sống xã hội, sự tác động từ những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế đã làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân phai nhạt lý tưởng, giảm sút lòng tin, chạy theo lối sống thực dụng, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
Trước những chống phá bằng các thủ đoạn, phương pháp ngày càng tinh vi, xảo quyệt, thâm độc của các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chúng ta đã tích cực, chủ động triển khai các hoạt động đấu tranh phòng, chống và đã thu được những kết quả quan trọng, góp phần phê phán các quan điểm thù địch, sai trái, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trên cơ sở đó đã góp phần định hướng nhận thức, tư tưởng cho các tầng lớp nhân dân, củng cố niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tuy nhiên, công tác đấu tranh phòng, chống các quan điểm thù địch, sai trái, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập trong nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành trong việc xác định chương trình, kế hoạch và tổ chức lực lượng, triển khai các hoạt động đấu tranh chống các quan diểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa thật sự chủ động, tích cực. Việc phối hợp, kết hợp đấu tranh và điều kiện bảo đảm thông tin, tư liệu, kinh phí cho hoạt động đấu tranh chống các quan diểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vẫn còn chưa theo kịp diễn biến của tình hình.
Vì vậy, việc đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống các quan điểm thù địch, sai trái trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận nhằm khẳng định, bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đẩy mạnh việc phê phán, bác bỏ các quan điểm thù địch, sai trái trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đang trỏ thành nhiệm vụ quan trọng trong công tác tư tưởng và lý luận ở nước ta hiện nay.
Để tiếp tục bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, phải kết hợp chặt chẽ giữa "xây" với "chống". Vừa kiên định, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vừa tích cực chủ động đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận.
Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là phải nắm vững mối quan hệ giữa kiên định và phát triển. Nghĩa là, phát triển trên cơ sở kiên định nguyên tắc cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, với xu thế của thời đại. Thực tiễn luôn vận động, phát triển và biến đổi không ngừng nên lý luận Mác - Lênin cũng cần được bổ sung, phát triển phù hợp với thực tiễn đương đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống mở, không thể coi những nhận thức đạt được cho đến ngày nay là những chân lý tuyệt đối cuối cùng. Không ngừng phát triển chủ nghĩa Mác _ Lênin vừa là yêu cầu thực tiễn xã hội, vừa là yêu cầu nội tại của học thuyết Mác - Lênin. Có phát triển và thông qua phát triển, chủ nghĩa Mác - Lênin mới tự bảo vệ được mình, mới phát huy sức sống và sức mạnh với thời đại. Tư tưởng Hồ Chí minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Vì vậy, bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chính là phát huy sức mạnh, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin ở nước ta.
Để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phải kiên quyết đấu tranh với những quan điểm, tư tưởng thù địch, sai trái, bảo vệ tính khoa học, trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cần tổ chức nghiên cứu, nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ những luận điểm chung đến những luận điểm cụ thể, trên từng lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Tăng cường hơn sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất cúa các cấp ủy đảng trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch; bảo đảm các hoạt động đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận theo đúng định hướng của Đảng, chặt chẽ về nguyên tắc, vững vàng trong quan điểm chính trị, sâu sắc về tính khoa học, hiệu quả trong phương pháp đấu tranh. Cần huy động lực lượng rộng rãi trong các cơ quan nghiên cứu lý luận, các cơ quan nghiên cứu khoa học, các cơ quan truyền thông, báo chí...tiến công chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan đến vấn đề đấu tranh dưới nhiều hình thức, để kịp thời định hướng đấu tranh. Quan tâm đầu tư kinh phí, phương tiện, điều kiện, vật chất cho các hoạt động đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận.
Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước tiếp tục có những chuyển biến mau lẹ, phức tạp, khó lường; cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ngày càng trở nên khó khăn. Vì vậy, đi đôi với tăng cường đấu tranh, phê phán, bác bỏ các quan điểm thù địch, sai trái, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phải từng bước hiện thực hóa những mục tiêu, chính sách, lý tưởng về chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Phải chứng minh trên thực tế tính cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước bằng những kết quả hiện thực, bằng những thành quả trong công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
91 năm lãnh đạo và trưởng thành, 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta, Nhân dân ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực củ đời sống xã hội. "Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay."(5)Điều đó là một minh chứng sinh động, khẳng định Đảng ta đã tuyệt đối trung thành và vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Song, chúng ta cũng cần nhận thức sâu sắc rằng, con đường mà chúng ta đang đi tới là không dễ dàng, bằng phẳng mà phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ. Nhưng chúng ta luôn tin tưởng chắc chắn rằng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất định sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh được hiện thực hóa trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; các quan điểm sai trái, thù địch chống phá cách mạng Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận sẽ sớm bị vạch trần bởi tính chất phản khoa học, cách mạng của chúng.
2, Bảo vệ, khẳng định giá trị, sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mac- Lênin.
Vượt lên trên mọi giới hạn về không gian và thời gian, những nguyên lý, khái niệm, phạm trù, quy luật và phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin tiếp tục là “chìa khóa” giải đáp những vấn đề tư tưởng, soi sáng những nhiệm vụ lịch sử chín muồi của nhân loại, đó là giải phóng con người khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột, mọi sự tha hóa. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin có giá trị bền vững và tính thời đại bởi bản thân nó là một học thuyết phát triển và nhân văn, luôn hướng tới sự tiến bộ của xã hội. Những giá trị cơ bản đó được thể hiện sinh động, nhất quán từ chủ nghĩa Mác đến chủ nghĩa Lê-nin và trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nói học thuyết Mác là học thuyết phát triển bởi nó mang bản chất khoa học, cách mạng triệt để nhất. Ngày nay, mặc dù thế giới có nhiều đổi thay, bản thân các nước tư bản cũng có sự điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh mới, nhưng bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vẫn không hề thay đổi. Những hạn chế, khuyết tật vốn có của chủ nghĩa tư bản, như ô nhiễm môi trường, xung đột, khủng bố, bạo lực và bất ổn xã hội, khủng hoảng kinh tế, bất bình đẳng xã hội,... vẫn diễn ra hết sức gay gắt và phức tạp ở các nước tư bản. Thậm chí, học giả Allen W. Wood còn chỉ ra rằng: “Phần lớn mọi người đều cho rằng Mỹ là quốc gia giàu có nhất trên thế giới, nhưng đó cũng là quốc gia bất bình đẳng nhất trên thế giới: 400 người giàu nhất nước Mỹ sở hữu khối lượng tài sản cao hơn tổng số tài sản của 150 triệu người nghèo nhất. Những người giàu nhất chiếm 1% dân số nhưng lại sở hữu hơn 1/3 tổng lượng tài sản của toàn xã hội, vượt quá tổng lượng tài sản của những người có thu nhập thấp nhất nước Mỹ - đối tượng chiếm tới 95% dân số”(1). Với những mâu thuẫn mang tính bản chất đó, theo sự vận động của quy luật xã hội, xu hướng diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản vẫn là vấn đề thời sự của không chỉ thời Mác sống mà ngay cả tới tận ngày nay.
V.I. Lê-nin từng chỉ rõ: “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác. Nó là một học thuyết hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào”(2). Cũng vì đó là học thuyết phát triển, học thuyết mở nên sẽ là sai lầm nếu tuyệt đối hóa mặt này hay mặt kia của nó. Chính Ph. Ăng-ghen từng nói rõ: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”(3). Sau này, V.I. Lê-nin cũng khẳng định và nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”(4).
Với chủ nghĩa duy vật lịch sử, mà cốt lõi là lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác đã chỉ ra quy luật phát triển của xã hội loài người thực chất là sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội, thông qua cách mạng xã hội. Sự thay thế đó là một quá trình lâu dài và được quyết định bởi những mâu thuẫn nội tại của các hình thái kinh tế - xã hội ấy. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội được xem như là một cơ thể sống, một cơ cấu xã hội hoàn chỉnh, luôn luôn biến động bởi sự tác động tổng hợp của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Trong sự tác động đó, con người luôn giữ vai trò trung tâm và quan trọng nhất, quyết định sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội. Vì thế, C. Mác khẳng định: “Trong tất cả những công cụ sản xuất, thì lực lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản thân giai cấp cách mạng”(5).
Trong khi khẳng định tính tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, C. Mác cũng chứng minh tính tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội mà hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa nhất thiết phải chuyển sang, đó là hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, trong đó giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa. Sự vận động, phát triển, thay thế các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao là quy luật tất yếu của lịch sử xã hội loài người, chứ không phải của riêng một dân tộc hay quốc gia nào.
Đối chiếu với lịch sử phát triển xã hội loài người cũng như thực tiễn phát triển xã hội của nhân loại ngày nay, có thể thấy, sự tổng kết nói trên của C. Mác là hoàn toàn đúng đắn, vượt xa thời đại mà ông sống về tư duy cũng như tầm nhìn. Quan điểm duy vật lịch sử cùng với lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác là nền tảng trong việc hình thành nhận thức về xã hội tư bản chủ nghĩa hiện đại và xã hội xã hội chủ nghĩa với đầy đủ những đặc điểm về bản chất, mâu thuẫn, xu hướng vận động, phát triển cũng như con đường đưa chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trở thành hiện thực.
Lý luận kinh tế chính trị của C. Mác với học thuyết giá trị thặng dư lại chỉ ra mục đích và bản chất của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư và lợi nhuận tối đa, là nguồn gốc dẫn tới sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội. Nhiều học giả tư sản cố gắng phủ nhận học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác bằng cách lý giải rằng, chính máy móc tạo ra giá trị, còn sức lao động của công nhân thì được trả công sòng phẳng, vì thế, nhà tư bản không hề bóc lột công nhân, mà họ làm giàu chính đáng nhờ “bóc lột” máy móc. Tuy nhiên, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã chỉ ra những mâu thuẫn cũng như khuyết tật cố hữu của chủ nghĩa tư bản, đồng thời cung cấp căn cứ lý luận xác đáng để đi đến khẳng định: “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”(6).
Ngày nay, trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng với quá trình toàn cầu hóa và kinh tế tri thức, giá trị thặng dư được tạo ra ngày càng nhiều hơn cho nhà tư bản. Vai trò, vị trí của giai cấp công nhân, người lao động mặc dù được đề cao và đời sống của họ cũng được cải thiện nhiều mặt; song, xét về địa vị, họ vẫn là những người lao động làm thuê, phục vụ mục đích làm gia tăng giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Bản chất áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản hiện đại không hề thay đổi. Những mâu thuẫn vốn có của xã hội tư bản chủ nghĩa, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất và chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng trở nên sâu sắc. Trước thực tiễn đó, bản thân chủ nghĩa tư bản, dù ở phương Đông hay phương Tây, đều phải điều chỉnh để thích nghi và tồn tại.
Theo chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội có mục đích trực tiếp là giải phóng giai cấp vô sản, song bản chất và mục đích sâu xa của chủ nghĩa xã hội hay của chủ nghĩa cộng sản là giải phóng con người, tạo điều kiện cho con người được tự do và phát triển toàn diện. Quan điểm này của chủ nghĩa Mác vừa bao hàm giá trị khoa học, biện chứng, vừa thấm đẫm tính nhân văn, nhân đạo cao cả. Chủ nghĩa Mác, bằng lý luận hoàn bị của mình, khẳng định việc thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân, người lao động là tất yếu khách quan, thay thế cho chế độ tư bản chủ nghĩa vốn đã bộc lộ quá nhiều khiếm khuyết và mâu thuẫn; đồng thời, luận giải một cách khoa học về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản và khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở các nước lạc hậu... Phương pháp tiếp cận khoa học, biện chứng cùng quan điểm có tính cách mạng và nhân văn về bản chất, mục tiêu, động lực phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa là những giá trị không thể phủ nhận của chủ nghĩa Mác.
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, xuất phát từ thực tiễn nước Nga và bối cảnh chủ nghĩa tư bản thế giới chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I. Lê-nin đã bổ sung, phát triển lý luận của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, hình thành nên chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Sự bổ sung, phát triển đó của V.I. Lê-nin diễn ra toàn diện, cả trên lĩnh vực triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học, nhằm ứng dụng vào thực tiễn cách mạng nước Nga. V.I. Lê-nin là người sáng lập ra học thuyết về chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân và đưa ra luận điểm: Cách mạng vô sản có thể nổ ra và thắng lợi ở một số nước, thậm chí ở một nước lạc hậu. Luận điểm này đã được chứng minh bởi thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, là sự bổ sung, phát triển sáng tạo của V.I. Lê-nin đối với học thuyết của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, bởi trước đó, hai ông nhận định, chủ nghĩa xã hội chỉ có thể giành thắng lợi trước tiên ở các nước công nghiệp phát triển phương Tây.
V.I. Lê-nin còn nhận thấy vai trò to lớn và mối quan hệ mật thiết của cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời đại mới, của độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đưa đến sự ra đời của nước Nga Xô-viết, đồng thời mở ra thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Sau cuộc nội chiến, nước Nga lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng, V.I. Lê-nin đã đề xướng cải cách chủ nghĩa xã hội với “Chính sách kinh tế mới” (NEP), thay cho “Chính sách cộng sản thời chiến”, đưa nước Nga ra khỏi cuộc khủng hoảng.
“Chính sách kinh tế mới” chủ trương dùng lợi ích kinh tế để tạo động lực thúc đẩy tính tự giác, tích cực của công nhân, nông dân và người lao động, giải phóng lực lượng sản xuất cùng mọi tiềm năng sáng tạo của con người để thúc đẩy xã hội phát triển. Theo đó, việc thực hiện các hình thức “quá độ gián tiếp”, “quá độ đặc biệt”, những “biện pháp trung gian” được thừa nhận như là giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”(7).
Có thể nói, tư tưởng của V.I. Lê-nin về cách mạng vô sản, về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông, có chủ nghĩa tư bản phát triển ở mức độ trung bình; về đặc điểm, tính chất, biện pháp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; về vai trò của đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa..., đều là những sáng tạo vô giá, giúp bổ sung, làm giàu thêm cho lý luận của chủ nghĩa Mác. Nhờ đó, chủ nghĩa Mác - Lê-nin trở thành ngọn hải đăng soi sáng con đường cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người cho hàng triệu người dân lao động ở các nước thuộc địa trên thế giới, cũng là cơ sở lý luận để Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới hiện nay.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của đất nước. Ngay sau khi được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lê-nin, Người xác định, con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam là phải tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa để giải phóng dân tộc, giai cấp và con người. Vì thế, xuyên suốt và nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người tiên phong trong việc thức tỉnh dân tộc mình và các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh giành lại độc lập dân tộc. Đồng thời, Người cũng khẳng định: Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có mối quan hệ chặt chẽ với cách mạng ở chính quốc, nhưng không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng ở chính quốc; nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có thể chủ động đứng lên, “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, giành thắng lợi trước cách mạng ở chính quốc.
Xuất phát từ điều kiện đặc thù của xã hội Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết sáng tạo và thành công mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, từ đó tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với cách mạng nước ta. Về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Người cho rằng, đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Quan điểm này của Người đã cụ thể hóa và làm phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, là cơ sở để xác định bước đi và các biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về mục tiêu và lý tưởng của chủ nghĩa xã hội, Người khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”(8).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, chuyển hóa và vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng nước ta; qua đó, tạo nên hệ thống tư tưởng của mình và tạo tiền đề quan trọng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào mùa Xuân năm 1930. Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua dưới sự lãnh đạo, dẫn dắt của Ðảng Cộng sản Việt Nam, nhất là trong 35 năm đổi mới vừa qua, đã khẳng định và chứng minh giá trị, sức sống vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cùng với đó, thực tiễn đổi mới, cải cách, mở cửa ở các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay, những chuyển biến tích cực tại các nước tư bản chủ nghĩa và nỗ lực phát triển không ngừng của các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới, cũng là những minh chứng cho giá trị trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thời đại ngày nay.
3, Nhận diện đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc bản chất khoa học, cách mạng, ý nghĩa thời đại của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đến nay, trải qua 94 năm xây dựng và phát triển, Đảng lãnh đạo đất nước ta đi từ thắng lợi này, đến thắng lợi khác. Để đạt được những thành tựu đó, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn thực hiện song song hai nhiệm vụ quan trọng xuyên suốt đó là xây dựng, tổ chức thực hiện đường lối chính trị và kiên quyết đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nhận diện, đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc bản chất khoa học, cách mạng, ý nghĩa thời đại của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ nhất là, các đối tượng tung thông tin xuyên tạc, sai trái, thù địch về hình ảnh và tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm các tổ chức phản động lưu vong, nhất là những phần tử trong chế độ cũ; một số chính phủ, tổ chức phi chính phủ phương Tây, chính trị gia, nhà tài phiệt có tư tưởng cực hữu chính trị, chống cộng, đi đầu trong âm mưu xóa bỏ chủ nghĩa xã hội; những phần tử cơ hội, cực đoan, bất mãn chính trị trong nước; những đối tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái, biến chất, “trở cờ”,… Phương thức và thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, xảo quyệt, tuyên truyền, đánh tráo học thuật, xảo biện các vấn đề cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh; triệt để lợi dụng những đặc tính vốn là ưu thế nổi trội của các phương tiện truyền thông xã hội trở thành công cụ đắc lực chống phá con đường và sự nghiệp cách mạng Việt Nam… Việc nhận diện bản chất, bóc trần các thủ đoạn, từ đó xây dựng hệ luận cứ căn bản để phản bác những luận điệu sai trái, thù địch xuyên tạc về tư tưởng Hồ Chí Minh, qua đó góp phần giữ vững trận địa tư tưởng, củng cố địa vị chủ đạo hệ tư tưởng của Đảng ta trong đời sống tinh thần xã hội, có vai trò đặc biệt quan trọng.
Thứ hai là, Phải nhận định những luận điểm chủ yếu của người có quan điểm phản động và chủ nghĩa cơ hội gồm: Sự nguy hiểm của chủ nghĩa cơ hội vì nó khoác áo chủ nghĩa Mác, không công khai phủ nhận chủ nghĩa Mác nhưng xuyên tạc, vứt bỏ “linh hồn” cũng như những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác, nhằm “đưa những tư tưởng tư sản và những thành phần tư sản vào trong chủ nghĩa xã hội”. Biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội khác nhau ở từng quốc gia, nhưng giống nhau về nội dung, bản chất chính trị - xã hội, ở tính không kiên quyết, vô nguyên tắc, không rõ ràng, lờ mờ, quanh co, do dự, thiếu kiên định, dao động về chính trị, “dễ dàng thừa nhận mọi công thức và rời bỏ mọi công thức cũng dễ dàng như thế”.
Thứ ba là, Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. Trong điều kiện hiện nay, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là “nhiệm vụ then chốt”, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.
Thứ tư là. Cán bộ, đảng viên phải thật sự nêu gương sáng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, trước hết. Muốn đấu tranh, trước hết phải tránh xa cám dỗ, thói hư, tật xấu, xây dựng đạo đức thực thi công vụ trong sáng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; kiên trì, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Thứ năm, phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị về chương trình, giáo trình, nội dung và phương pháp giảng dạy trong hệ thống các trường chính trị và hệ thống giáo dục quốc dân. Trong đó, xây dựng các chương trình, nội dung đào tạo lý luận chính trị phù hợp với đối tượng và cấp học, có tính liên thông để khắc phục sự chồng chéo, trùng lặp, chưa bám sát thực tiễn gắn với việc nâng cao tính hấp dẫn trong dạy và học các bộ môn lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ. Đồng thời, chú trọng giáo dục lý luận chính trị cho thế hệ trẻ, “góp phần làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội; bảo đảm thế hệ trẻ Việt Nam luôn trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng và với chế độ”.
Thứ sáu, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo và đấu tranh phản bác có hiệu quả, kịp thời các quan điểm sai trái, thù địch, với các hình thức đa dạng, phong phú để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng. Tăng cường thực hiện cơ chế phối hợp và trao đổi thông tin, chủ động nắm bắt âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch, đối tượng cơ hội chính trị; chủ động xây dựng kế hoạch, luận cứ đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc và tạo sự thống nhất trong phối hợp giữa các cơ quan, ngành có liên quan trên cả ba lĩnh vực lý luận chính trị, tư tưởng - văn hóa và văn học - nghệ thuật. Trong đó, các cơ quan thông tấn, báo chí từ Trung ương đến địa phương tiếp tục xây dựng chuyên trang, chuyên mục tuyên truyền sát hợp thực tế về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; phòng và chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”; phòng và chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”… Thông qua đó, nâng cao nhận thức về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng, sự cần thiết phải học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nhận diện và kiên quyết phòng, chống và ngăn chặn các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; chỉ rõ và vạch trần thủ đoạn thổi phồng những sơ hở, yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội của các thế lực thù địch, phản động nhằm kích động tâm lý bất mãn, chống đối, chia rẽ nội bộ, chia rẽ khối đoàn kết toàn dân để tăng cường sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.
Thứ bảy, phải bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia. Dựng nước gắn liền với giữ nước là quy luật lịch sử của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước. Trong thời kỳ phát triển mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bảo đảm an ninh quốc gia ngày nay bao gồm: an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa, an ninh xã hội. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, sự nghiệp đổi mới…
Có thể nói, chưa bao giờ các thế lực phản động có ý định từ bỏ việc chống phá cách mạng Việt Nam, xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận vài trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hòng làm lu mờ và tiến tới xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng. Việc nhận diện, phân tích và làm rõ hoạt động chống phá của chúng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ của mọi cấp, mọi ngành, mọi lực lượng, trong đó cán bộ, giảng viên, viên chức ở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị đóng vai trò đặc biệt quan trọng góp phần định hướng, xây dựng, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước - mối quan hệ quyết định sự tồn vong của Đảng.
Để làm được điều đó mỗi cán bộ, Đảng viên Trung tâm Y tế thành phố Bảo Lộc phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyên nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, củng cố niềm tin chính trị vào Đảng, tuyệt đối trung thành bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và lan tỏa niềm tin đó đến với đông đảo quần chúng nhân dân.
4, Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng đường lối và thực tiễn phát triển đất nước trong bối cảnh mới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đó là học thuyết khoa học nêu ra các quy luật chung nhất về sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; là học thuyết cách mạng vạch ra con đường, chiến lược và sách lược đấu tranh để giai cấp công nhân lãnh đạo quần chúng cách mạng lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận hoàn chỉnh gồm ba bộ phận: triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Hệ thống lý luận này đã chứng minh sức sống trước thử thách của thời gian nhờ có các giá trị nền tảng bền vững:
- Phương pháp biện chứng duy vật: là phương pháp tổng quát của triết học Mác - Lênin; là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa trong lịch sử phát triển của phương pháp biện chứng từ thời cổ đại và được bổ sung bởi những thành tựu của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và thực tiễn đấu tranh cách mạng của phong trào công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới từ giữa thế kỷ XIX. Phương pháp biện chứng duy vật dựa trên phép biện chứng duy vật - khoa học về những quy luật vận động và phát triển phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy; là học thuyết tổng quát nhất về sự phát triển. Dựa trên các nguyên lý, các quy luật cơ bản và các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật, phương pháp biện chứng duy vật là phương pháp xem xét, nhận thức sự vật, hiện tượng một cách khách quan, toàn diện trong sự phát triển, gắn với điều kiện lịch sử cụ thể và thực tiễn nhằm tìm ra bản chất, quy luật phát triển của sự vật.
- Quan niệm duy vật về lịch sử: là một trong những phát minh vĩ đại của C.Mác. Với phát minh này, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới. Quan niệm duy vật về lịch sử xem xét xã hội như một chỉnh thể, có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong của các hình thái kinh tế - xã hội theo các quy luật khách quan. Thừa nhận sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, điều kiện sinh hoạt vật chất quyết định điều kiện sinh hoạt tinh thần, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, kinh tế xét đến cùng là nhân tố quyết định đối với chính trị.
Tuy nhiên, quan niệm duy vật về lịch sử của C.Mác khác với chủ nghĩa duy kinh tế - chủ nghĩa duy vật tầm thường chỉ nhấn mạnh một chiều yếu tố kinh tế, yếu tố vật chất mà coi nhẹ yếu tố tinh thần, yếu tố chính trị. Trong khi khẳng định vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, kinh tế đối với chính trị, quan niệm duy vật lịch sử nhấn mạnh sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội, đời sống tinh thần đối với đời sống vật chất, chính trị đối với kinh tế .v.v.
- Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội do các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin xây dựng là hòn đá tảng trong quan niệm duy vật lịch sử; là cơ sở khoa học để giải thích tính phong phú, đa dạng trong sự phát triển của các quốc gia, dân tộc. Xã hội loài người nói chung phải trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, là một quá trình lịch sử - tự nhiên do những mâu thuẫn trong lòng của mỗi hình thái kinh tế - xã hội quy định. Đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.... Những mâu thuẫn này được giải quyết sẽ dẫn đến hình thái kinh tế - xã hội cũ mất đi, hình thái kinh tế - xã hội mới ra đời thay thế, làm cho xã hội phát triển lên một trình độ mới cao hơn. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là tất cả các quốc gia, dân tộc đều lần lượt, nhất loạt phải trải qua đầy đủ các nấc thang phát triển đó. Do vậy, có sự phát triển không đồng đều giữa các quốc gia, dân tộc.
- Học thuyết giá trị thặng dư: là một trong những phát minh vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Học thuyết đã bóc trần bí mật của phương thức bóc lột tư bản chủ nghĩa; giải thích triệt để quan hệ giữa tư bản và lao động; tìm ra cơ chế, động lực tồn tại và phát triển của xã hội tư bản và giai cấp tư sản là bóc lột giá trị thặng dư. Quy luật giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản, chi phối tất cả các xã hội tư bản, tất cả các giai đoạn của chủ nghĩa tư bản; đã chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất xã hội hóa ngày càng cao với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng lớn đối với tư liệu sản xuất, biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp giữa giai cấp công nhân và những người lao động làm thuê với giai cấp tư sản.
- Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: là đóng góp to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, soi sáng vai trò lịch sử của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa thay thế xã hội tư bản. Sứ mệnh đó bắt nguồn từ chỗ giai cấp công nhân là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, cho phương thức sản xuất tiên tiến, là một giai cấp cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, có sứ mệnh lịch sử là giải phóng cho giai cấp mình đồng thời giải phóng cho nhân dân lao động và toàn nhân loại, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Để thực hiện thành công sứ mệnh của mình, giai cấp công nhân phải có chính đảng cách mạng chân chính lãnh đạo, đảng cộng sản là đội tiền phong của giai cấp công nhân. Ngày nay, những thay đổi của đội ngũ công nhân về số lượng, chất lượng, cơ cấu, điều kiện sống và trình độ học vấn, nghề nghiệp… không hề làm mất đi bản chất cách mạng, không hề hạ thấp sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện đại.
Với những giá trị nền tảng, bền vững nêu trên, chủ nghĩa Mác - Lênin đã tạo ra một lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, luận chứng một cách thuyết phục con đường hiện thực, chủ thể lãnh đạo, lực lượng tiến hành, chiến lược, sách lược… dẫn dắt giai cấp công nhân và quần chúng cách mạng đấu tranh lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội mới không còn bóc lột, áp bức, nô dịch. Hơn 170 năm qua, các thế lực tư bản, đế quốc và phản động đã từng nhìn nhận lý luận mác xít như “bóng ma ám ảnh châu Âu”; đặc biệt khi “bóng ma” ấy trở thành hiện thực ở nước Nga năm 1917 và sau đó trở thành hệ thống thế giới hùng hậu, không chỉ đối trọng với chủ nghĩa tư bản, mà còn quyết định nhiều vấn đề lớn của thế giới trong nhiều thập kỷ của thế kỷ XX và tiếp tục được khẳng định bởi sự phục hồi, đổi mới và phát triển của chủ nghĩa xã hội cả về lý luận và thực tiễn hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp khoa học, nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính, truyền thống lịch sử, tinh hoa văn hóa của dân tộc, thực tiễn sinh động của cách mạng Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại, trí tuệ của thời đại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin; là tài sản tinh thần to lớn của dân tộc ta; đã, đang và sẽ mãi là ngọn cờ soi sáng con đường cách mạng Việt Nam.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là nghiên cứu cuộc đời, thân thế, sự nghiệp; nghiên cứu quan điểm, học thuyết; nghiên cứu nhân cách, phong cách, tấm gương; nghiên cứu hoạt động cách mạng phong phú của Người, Anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân văn hóa thế giới.
Đối với công cuộc đổi mới vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng và Nhân dân ta tiến hành từ năm 1986, tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị đặc biệt cả về lý luận và thực tiễn. Thuật ngữ và tư tưởng “đổi mới” được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đề cập từ sớm trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (năm 1927); được Người nhắc lại, làm rõ thêm trong nhiều bài viết, bài nói, nổi bật là: “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947), “Đời sống mới” (năm 1947), “Dân vận” (năm 1949), đặc biệt trong bản Di chúc thiêng liêng (1965-1969) để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trước lúc Người đi xa. Từ các bài viết, bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh toát lên một hệ thống luận điểm có giá trị nền tảng và định hướng về đổi mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đổi mới là bản chất của cách mạng, của phát triển. Trong “Đường Kách mệnh”, Người chỉ rõ: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Nói về công cuộc kiến thiết đất nước sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, Người nhấn mạnh: “Là cuộc chiến đấu chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Triết lý đổi mới, chân lý đổi mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh là ích nước, lợi dân: “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý”; “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.
Đổi mới là sự nghiệp lâu dài, phức tạp, gian khổ, phải kiên định, kiên quyết, kiên trì, lựa chọn những bước đi thích hợp. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: thắng đế quốc, phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng, lạc hậu còn khó hơn nhiều; đấu tranh xóa bỏ cái cũ, xây dựng cái mới là công việc cực kỳ to lớn, nặng nề, phức tạp và khó khăn, do vậy phải có kế hoạch tỉ mỉ, chuẩn bị chu đáo, thực hiện chắc chắn.
Sức mạnh của đổi mới là Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”; để giành thắng lợi “cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục nhân dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của nhân dân”; phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tinh thần: cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, Việt Nam sẵn sàng là bạn của các nước dân chủ.
Đảng là linh hồn của đổi mới. Đảng phải vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, căn cứ thực tiễn của Việt Nam và thế giới để bổ sung những tư liệu, vấn đề mà các nhà kinh điển ở thời mình không thể có được để đề ra và thực hiện đường lối, chủ trương đúng đắn. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: thế giới ngày ngày đổi mới, xã hội ngày một phát triển, nhân dân ngày càng tiến bộ, do vậy, cán bộ, đảng viên không thể “giữ cái kẹp giấy cũ không thay đổi”, “tư tưởng, hành động cũng phải phát triển”, “phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng đổi mới là tư tưởng cách mạng, khoa học trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với tinh hoa văn hóa dân tộc, nhân loại, phản ánh và giải quyết những nhu cầu khách quan của thực tiễn đất nước; đạo đức đổi mới là phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, đặt lợi ích của dân tộc, Tổ quốc lên trên hết, trước hết, đổi mới vì một nước Việt Nam độc lập, hòa bình, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh; phong cách đổi mới là kiên định, sáng tạo, dân chủ, thực tiễn, hiệu quả, nói đi đôi với làm, làm thiết thực, mang lại kết quả thực tế cho dân, cho nước. Đó chính là những giá trị bền vững của tư tưởng, đạo đức, phong cách đổi mới Hồ Chí Minh.
Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, trực tiếp là 05 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng đã tổng kết thành các bài học kinh nghiệm. Trước hết, đó là “kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI qua các cột mốc năm 2025, 2030 và năm 2045, toàn Đảng, toàn dân có mục tiêu, nhiệm vụ chính trị chiến lược hàng đầu là “đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc”, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu, nhiệm vụ to lớn, nặng nề cần được thực hiện thắng lợi trong bối cảnh thế giới đang và tiếp tục có nhiều chuyển động sâu rộng, tạo ra sự thay đổi mang tính bước ngoặt trong sản xuất vật chất và đời sống tinh thần của toàn nhân loại. Trên thế giới ngày nay, cạnh tranh giữa các quốc gia dân tộc về cơ hội, điều kiện và các nguồn lực phát triển sẽ ngày càng gay gắt, quyết liệt. Đặt trong bối cảnh này, công cuộc đổi mới của chúng ta không thể tiếp tục lộ trình theo kiểu “kinh nghiệm chủ nghĩa”, mà nhất thiết phải được một lý luận tiền phong soi sáng. Lý luận tiền phong đó chính là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được toàn Đảng, toàn dân kiên định quán triệt, nhận thức sâu sắc và vận dụng, phát triển sáng tạo.
- Hết -