Lý Công Uẩn, người khai sáng vương triều Lý (1010-1225), khai sinh Thủ đô Thăng Long - Hà Nội, sinh ra và được nuôi dưỡng, giáo dục nơi cửa chùa. Năm 1009, Lê Ngọa Triều (Lê Long Đĩnh) của nhà Tiền Lê mất, Lý Công Uẩn được giới tăng sĩ và quần thần tôn lên làm vua một cách êm thấm và kịp thời, lấy niên hiệu là Thuận Thiên (nghĩa là “theo ý trời”), miếu hiệu là Lý Thái Tổ.
Chưa đầy một năm sau (năm 1010) ông đã ban Thiên Đô Chiếu (Chiếu dời đô) từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La, đổi tên thành Thăng Long. Đó là quyết định có ý nghĩa lịch sử trọng đại nhất của Lý Công Uẩn thể hiện một trí tuệ việt trác, thiên tài, một tầm nhìn xa vượt ngàn năm, một tấm lòng lo toan cho con cháu nước Việt muôn đời. Đây cũng là một quyết sách của một vị hoàng đế mà hơn 10 thế kỉ sau vẫn còn sức trường tồn hẳn là quyết sách của trời vậy!
Về văn chương, Chiếu dời đô là áng văn lớn, giàu hình tượng, có trí tưởng tượng phong phú và có tính dự báo rất xa: “Huống chi thành Đại La ở khu vực giữa trời đất, có được thế đất rồng cuộn, hổ ngồi; chính vị đông, tây, nam, bắc; tiện nghi phía trước là sông, phía sau là núi. Khu vực ấy rộng rãi, bằng phẳng; đất ở đấy cao ráo, sáng sủa, dân cư không bị ngập chìm tối tăm khổ sở, muôn vật thịnh vượng, tốt tươi…”. Không có trí tưởng tượng phong phú làm sao có được hình tượng giữa trời đất… rồng cuộn, hổ ngồi? Còn tính dự báo thì hẳn ai đọc Chiếu dời đô cũng biết, cho đến bây giờ Thủ đô của nước Việt Nam thế kỉ 21 vẫn là Thăng Long nghìn năm trước của Lý Công Uẩn.
Nhà văn Gia Dũng, khi biên soạn tập tuyển thơ Ngàn năm thương nhớ rất công phu, dày hơn 2.000 trang đã xếp Chiếu dời đô là bài thơ đầu tiên của tuyển. Lý do các học giả lại coi Chiếu dời đô là một áng thơ vì đó là bài thơ văn xuôi truyền được sự xúc động của Lý Công Uẩn tới người đọc nghìn năm sau về một hình tượng thơ lớn là Thăng Long “rồng cuộn, hổ ngồi” rất ám ảnh. Chính từ hình tượng thơ trong Chiếu dời đô đó mà Lý Công Uẩn đã đổi tên Đại La thành Thăng Long chăng?
Về mặt triết học mà Lý Công Uẩn dựa vào để lỹ giải việc dời đô là “Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi”. Mệnh trời là cái tất yếu, không thể cưỡng lại. Còn ý của dân là chỗ dựa bền vững nhất của mọi triều đại. Cái gì dân không theo thì đừng làm. “Nâng thuyền cũng là dân. Lật thuyền cũng là dân” (Nguyễn Trãi).
Về mặt địa lí, những năm làm quan dưới triều Nhà Đinh và Tiền Lê, Lý Công Uẩn đã thấy việc đóng đô ở Hoa Lư chỉ với mục đích phòng thủ, cố thủ, song không có lợi cho việc xây dựng và phát triển vương triều cũng như đất nước lâu dài. Nhất định trước khi lên ngôi vua, Lý Công Uẩn với sự giúp đỡ của sư Vạn Hạnh, sư anh Lý Khánh Vân và tướng Đào Cam Mộc (người Thanh Hóa) đã đi thị sát Đại La nhiều lần đã phát hiện ra mạch đất nơi đây là huyệt đất “đế vương” muôn đời: “Ngắm xem khắp nước Việt, thấy đây là vùng đất có phong cảnh tốt đẹp nhất, thực là nơi trọng yếu cho bốn phương hội tụ; là đất Thượng đô của Thượng đô muôn đời”, nên ông quyết tâm dời đô ra đó. Và quyết định đó là chính xác tuyệt vời.
Về chính trị và kinh tế, sau khi dời đô, triều Lý phát triển rất hưng thịnh. Vương triều Lý do Lý Công Uẩn khai sáng tồn tại 215 năm, 8 đời vua, là một triều đại lớn trong lịch sử đất nước với những ông vua anh hùng, có công khai sáng văn hiến dân tộc, như: Lý Thánh Tông (1054-1072), Lý Nhân Tông (1072-1128); với những nhà quân sự, chính trị kiệt xuất như: Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành… Triều Lý phát triển mạnh về kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao: Xây dựng kinh đô, thành quách khang trang; xây dựng các công trình thủy lợi, đê điều, phát triển nghề dệt, nghề gốm… đạt tới đỉnh cao. Vân Đồn trở thành thương cảng quốc tế có nhiều tàu buôn nước ngoài vào ăn hàng tấp nập. Triều Lý mở Quốc Tử Giám, lập chế độ đại học, mở khoa thi chọn nhân tài… Với một đường lối đối ngoại vừa khôn khéo, vừa cứng rắn, vương triều Lý đã được nhà Tống phương Bắc nể trọng, lãnh thổ đất nước được bảo vệ vững chắc, toàn vẹn.
Thăng Long - Hà Nội, thế đất “rồng cuộn, hổ ngồi” ấy dẫu có thời gian không phải là kinh đô Đại Việt (như giai đoạn Tây Sơn rồi triều Nguyễn 157 năm kinh đô ở Huế) có lúc bị ngoại bang chiếm đóng, vẫn luôn đỏ chói trong trái tim người Việt. Bởi vậy, từ thuở theo chúa Nguyễn Hoàng mở cõi phương Nam, trong trái tim những người chiến binh luôn luôn đau đáu nỗi nhớ Thăng Long-Hà Nội: “Từ thuở mang gươm đi mở cõi /Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Văn Nghệ)…